2 người Trung Quốc đầu tư cho 8 người Việt “núp bóng” mua 84 lô đất
Trả lời kiến nghị cử tri về vấn đề trên, Bộ Quốc phòng đã có một thống kê khá rõ ràng về việc người Trung Quốc sở hữu đất có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Đây có lẽ là lần đầu tiên Bộ Quốc phòng trả lời cử tri với các thông tin rất cụ thể.
Về doanh nghiệp, có 7 doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc sở hữu một số lô đất ven biển và thuê đất 50 năm.
Công ty TNHH Silver Sea Triệu Nghiệp, đứng tên sử dụng 2 lô đất ở dải đất ven tường rào sân bay Nước Mặn. Công ty TNHH Thương mại Du lịch & dịch vụ Hoàng Gia Trung sử dụng 13 lô đất mặt đường Võ Nguyên Giáp.
Công ty TNHH MTV Golden Wynn Đà Nẵng sử dụng 1 lô đất ở mặt đường Hoàng Sa; Công ty TNHH Thương mại – Du lịch và dịch vụ V.N. Holiday, doanh nghiệp đã chuyển nhượng mua lại từ các cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam, sở hữu 20 lô đất ở dải đất ven tường rào sân bay Nước Mặn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Công ty TNHH Silver Shores Hoàng Đạt, được UBND TP.Đà Nẵng cho thuê 200.000 m2 đất, thời gian thuê 50 năm (đến ngày 21.6.2056), đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21.3.2017.
Góp vốn bằng đất, sau đó bị đối tác Trung Quốc “thôn tính”
Theo Bộ Quốc phòng, để sở hữu các lô đất ở TP.Đà Nẵng, người Trung Quốc chủ yếu dựa theo 2 hình thức.
Thứ hai, là người Trung Quốc đầu tư tiền cho cá nhân người Việt Nam (chủ yếu người Việt gốc Hoa) để mua đất. Cơ quan chức năng đã phát hiện một số trường hợp cá nhân có kinh tế khó khăn nhưng đứng tên sở hữu nhiều lô đất, như ông Lý Phước Cang 12 lô, ông Trác Ngọc Phúc 10 lô… Hầu hết các lô đất đều ở vị trí các đường lớn, ven biển, đắc địa cho hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa quan trọng trong khu vực phòng thủ.
Bộ Quốc phòng cho rằng cử tri và dư luận xã hội thấy “đáng ngại” về việc cơ quan chức năng TP.Đà Nẵng cấp chứng nhận quyền sử dụng 21 lô đất cho người Trung Quốc là có cơ sở.
Tuy nhiên, để sở hữu các lô đất, người Trung Quốc đã nghiên cứu, lợi dụng kẽ hở của luật Đầu tư năm 2014 “việc góp vốn bằng đất để liên doanh thành lập doanh nghiệp” và công tác quản lý nhà nước ở các lĩnh vực đầu tư, đất đai.
Các doanh nghiệp Trung Quốc đang sử dụng hơn 6.300 ha đất biên giới
Liên quan đến tình hình các doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động tại Việt Nam, Bộ Quốc phòng cho biết, tính đến ngày 30.11.2019, có 149 doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc (92 doanh nghiệp 100% vốn Trung Quốc, 57 doanh nghiệp vốn liên doanh) đang hoạt động ở khu vực biên giới của 22/44 tỉnh, thành; trong đó, khu vực biên giới đất liền 24 doanh nghiệp, khu vực biên giới biển 125 doanh nghiệp.
Trong số này, có 134 doanh nghiệp đang hoạt động, 15 doanh nghiệp đã triển khai nhưng tạm ngưng hoạt động. Các doanh nghiệp sử dụng đất với tổng diện tích 162.467,7 ha (trong đó có 943,7 ha thuộc khu vực biên giới đất liền và 5.393,7 ha khu vực biên giới biển, kể cả mặt biển); tổng vốn đầu tư 30,872 tỉ USD, trong đó khu vực biên giới đất liền 1,637 tỉ USD, khu vực biên giới biển 29,235 tỉ USD.
Cũng theo Bộ Quốc phòng, có 4.239 lao động người Trung Quốc đang làm việc tại các doanh nghiệp trên (khu vực biên giới đất liền 374 người, khu vực biên giới biển 3.865 người).
Có tình trạng doanh nghiệp đầu tư “núp bóng” danh nghĩa doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong các lĩnh vực du lịch, nuôi trồng, chế biến, thu mua hải sản nhưng thực chất việc điều hành, quản lý do người Trung Quốc đảm nhiệm (tại Khánh Hòa, Quảng Ninh).
Cơ quan chức năng đã xử lý một số vụ việc có yếu tố liên quan đến người Trung Quốc: 3 vụ/63 người không khai báo tạm trú, 3 vụ/87 người không có giấy phép lao động, 1 vụ/285 công nhân Trung Quốc xô xát với công nhân Việt Nam, 1 vụ/3 trường hợp kết hôn trái phép, 4 vụ/310 lao động không chấp hành quy định trong quá trình làm việc tại các doanh nghiệp.
Trước thực trạng này, Bộ Quốc phòng đã báo cáo và đề xuất Chính phủ 2 việc. Thứ nhất, chỉ đạo các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố rà soát đánh giá tổng thể các dự án đầu tư của nước ngoài, nhất là dự án liên quan đến Trung Quốc tại khu vực biên giới, biển, đảo có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh; kịp thời phát hiện, điều chỉnh những bất cập của luật Đầu tư, luật Đất đai và cơ chế quản lý, cấp phép các hoạt động đầu tư nhằm hạn chế sơ hở không để cá nhân, doanh nghiệp Trung Quốc lợi dụng hoạt động. Thứ hai, chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác nắm tình hình, phối hợp với công an rà soát các hoạt động của người Trung Quốc ở địa bàn đơn vị đảm nhiệm; chú ý các hoạt động lợi dụng vỏ bọc đầu tư, liên kết, núp bóng để hoạt động chống phá; kịp thời phát hiện báo cáo Bộ Quốc phòng tham mưu với Chính phủ chỉ đạo xử lý, ngăn chặn. |
Bộ Quốc phòng nêu cá nhân, doanh nghiệp Trung Quốc sở hữu đất 'đắc địa' tại Việt Nam