Category Archives: Brands Vietnam

Brands Vietnam
Thương hiệu Việt ngày càng lu mờ ngay trên đất Việt

2 years ago

Facebook

Prev Article Next Article







Đánh giá bài viết



Xem và chứng kiến nhiều mẫu quảng cáo, chiến dịch truyền thông đại chúng của những “gã khổng lồ” quốc tế ngay trên đất Việt, tôi cảm thấy chạnh lòng khi nhìn lại những “cậu bé” doanh nghiệp Việt Nam.
Vừa qua, tôi đọc được một mẩu chuyện vui của Hàn Quốc, câu chuyện mà người dân thường truyền tai nhau khi nói về những gã khổng lồ kinh tế của quốc gia. Qua câu chuyện này, hẳn chúng ta sẽ rút ra bài học lớn cho nền kinh tế và cuộc chiến thương hiệu của Việt Nam hiện nay.
Chuyện vui xứ kim chi
Người ta nói rằng, nếu một nhóm người Hàn Quốc đi vào rừng, vô tình chạm mặt với một con gấu to lớn, hung tợn và vô cùng đói, họ sẽ có những phản ứng khác nhau và rất đặc biệt.
Đầu tiên, nếu một người là nhân viên của Hyundai sẽ chiến đấu cho đến chết mà không chút do dự. Cũng giống như phương châm “bắn trước, nghĩ sau” của doanh nghiệp, anh ta sẽ tiến thẳng về phía con gấu như một chiếc xe Hyundai mạnh mẽ, gan lỳ mà không kém phần tinh tế.
Nếu một người làm việc cho Samsung, anh/cô ta sẽ ngay lập tức tổ chức một cuộc họp với đồng nghiệp hoặc tham luận ý kiến của các bộ phận khác, sàng lọc để tìm ra phương án tối ưu đối phó với con gấu dữ. Điều này phản ánh đúng phương châm nổi tiếng của Samsung: “Luôn xem xét kỹ lưỡng mọi lựa chọn trước khi triển khai”.
Và nếu một người làm việc cho LG, họ sẽ án binh bất động, chậm rãi quan sát mọi hành động của phía Samsung, sau đó làm theo. Chúng ta hẳn không còn lạ gì vụ kiện đình đám của hai gã khổng lồ này về việc vi phạm bản quyền công nghệ kỹ thuật giữa LG – Samsung.
Nếu một ai đó làm việc cho tập đoàn Lotte, anh ta sẽ nhử con gấu bằng một miếng gà rán từ chuỗi cửa hàng Lotteria và ru ngủ nó bằng một bộ phim từ hệ thống rạp Lotte Cinema.
Một câu chuyện vui từ xứ sở kim chi nhưng tôi và bạn đều thấy được cái chất và cái hồn của những doanh nghiệp đang là rường cột của nền kinh tế Hàn Quốc. Cái chất ở đây là vì nó phản ánh đúng, đủ và có phần trào phúng những nét đặc trưng của mỗi tập đoàn đã ăn sâu vào tâm thức mỗi người dân Hàn Quốc.
Tại quốc gia này, ban ngày cũng như ban đêm, từ giải trí đến công việc, trong nhà đến ngoài phố… không nơi nào mà bạn không có cơ hội tiếp xúc với những thương hiệu tầm cỡ ấy.
Thậm chí, vào thời kỳ huy hoàng nhất của kinh tế và xã hội, người ta chỉ mô tả cuộc sống của người Hàn Quốc bằng một câu nói: “Người Hàn Quốc di chuyển trên một chiếc xe Hyundai, liên lạc với nhau bằng chiếc điện thoại Samsung. Họ hẹn hò gặp mặt trong những cửa hàng gà rán Lotteria và đến cuối ngày, họ giặt giũ quần áo với một cái máy giặt LG”.
Sự lớn mạnh và tầm ảnh hưởng khủng khiếp của “họ” luôn là một nỗi ám ảnh với những doanh nghiệp khác có quy mô nhỏ hơn. Họ kiểm soát và tác động vào kinh tế quốc gia, thậm chí tại Hàn Quốc, người ta đồn rằng có đến hai nền chính trị: Chính phủ và Chaebol (một thuật ngữ ám chỉ các tập đoàn khổng lồ Hàn Quốc).
Còn phần hồn của câu chuyện thì sao? Đó là những cảm nhận, cảm xúc và sự thấu hiểu của người dân Hàn Quốc đối với các doanh nghiệp này. Nó liên quan đến một thuật ngữ chuyên môn Marketing – Định vị thương hiệu (Brand Positioning).
Nói một cách chính xác, định vị thương hiệu là những liên tưởng, cảm nhận của khách hàng về một thương hiệu nhằm hình thành nên một hình ảnh cụ thể và riêng biệt về thương hiệu đó, ở khía cạnh này, có lẽ ít doanh nghiệp nào thành công như các “Chaebol” Hàn Quốc.
Chậm rãi đọc lại câu chuyện trên, từ một Hyundai hừng hực khí thế, một Samsung kỹ tính và chuyên nghiệp hay một Lotte đa sắc màu với đủ loại ngành nghề… dường như người Hàn Quốc am hiểu một cách chi tiết, cặn kẽ về những thương hiệu của họ, cảm nhận những tinh túy từ cốt lõi sản phẩm, từ những thông điệp đến chương trình truyền thông mà các thương hiệu đã và đang vận hành. Họ hiểu, họ cảm nhận một cách trọn vẹn.
Công cuộc xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khá gian nan (ảnh Khều)
Doanh nghiệp Việt Nam thì sao?
Dừng lại một phút để suy ngẫm, người Việt có bao nhiêu câu chuyện như thế? Có bao nhiêu người cảm nhận được “chất men Việt” trong từng chai bia Sài Gòn?
Bao nhiêu tín đồ cà phê có thời gian ngẫm nghĩ câu chuyện xứ xở Buôn Ma Thuột, trong vị đậm đà của tách cà phê không biết có ai còn nhớ đến những ly sữa ngọt ngào, đầy tâm huyết của Vinamilk vì thế hệ mai sau? Và còn bao nhiêu câu chuyện đã làm nên tên tuổi các thương hiệu Việt bị lãng quên?
Trong khi niềm tự hào chưa thể nói thành lời thì nỗi đau lại kéo đến, người Việt sẽ mãi không bao giờ quên “cái vật kỳ lạ” trong chai nước ngọt của Tân Hiệp Phát, sẽ luôn tự hỏi cậu bé bị ung thư trong chương trình gây quỹ của mì gói Gấu Đỏ là ai?
Người nghe thì nhiều nhưng quan trọng người kể sẽ nói điều gì? Họ sẽ nói về những giá trị trường tồn, những bản sắc đã làm nên tên tuổi thương hiệu, những câu chuyện mang đậm nét quê hương, nói về giá trị vô hình đã làm nên cái chất riêng cho thương hiệu – niềm tự hào của kinh tế Việt Nam… hay là họ lại đi nghêu ngao về những cái nhất, những cái nổi bật và độc đáo trong mỗi sản phẩm, lại đi tung hô hệ thống kỹ thuật tiên tiến họ đang sỡ hữu và huyên thuyên với những lập luận giả tạo nhằm che đậy sai sót trước công chúng.

Cũng chính vì lẽ đó tôi chợt nhận ra rằng, người dân mình có mấy ai cảm nhận được giá trị thương hiệu Việt một cách trọn vẹn, liên tưởng một cách hoàn hảo mỗi khi nghe đến bất kỳ tên doanh nghiệp nào.
Xem và chứng kiến nhiều mẫu quảng cáo, chiến dịch truyền thông đại chúng của những “gã khổng lồ” quốc tế ngay trên đất Việt, tôi cảm thấy chạnh lòng hụt hẫng khi nhìn lại những “cậu bé” doanh nghiệp Việt Nam – về khoản này, có một Davids khó mà thắng được Goliath.
Tôi không nói về mức độ quy mô, cũng không phải về tiềm lực tài chính gần như vô tận, cái cách mà những “gã khổng lồ” này đang làm dường như cho thấy họ hiểu người dân Việt hơn và truyền đạt thông điệp một cách đầy thiện chí.
Người dân mình có thể có tính “sính ngoại” nhưng đừng quên “niềm tự hào dân tộc” luôn sôi sục trong mỗi chúng ta. Tuy nhiên, liệu có doanh nghiệp Việt nào biết khai thác nó và sẽ có bao nhiêu thương hiệu Việt đủ khả năng “bám rễ” vào trái tim, khối óc, tình yêu, tinh thần của đồng bào Việt Nam.
Theo Hồ Thế Lực / VnExpress
Share this:Click to share on Twitter (Opens in new window)Click to share on Facebook (Opens in new window)Click to share on Google+ (Opens in new window)Click to share on Pinterest (Opens in new window)Click to share on LinkedIn (Opens in new window)Click to share on Tumblr (Opens in new window)

Related

Prev Article Next Article

Brands Vietnam
Các thương hiệu Việt tự đào mồ chôn mình thế nào?

2 years ago

Facebook

Prev Article Next Article







Đánh giá bài viết



Đang đà phát triền nhưng chợt mất dần tên tuổi trên thị trường, các thương hiệu Việt đã tự đào mồ chôn mình như thế nào?
Sập bẫy chuyển giao công nghệ
Một điều rất dễ nhận thấy là các thương hiệu Việt sau khi đồng ý liên doanh cùng các thương hiệu nước ngoài thì hầu hết đều xảy ra hiện tượng đuối sức trong vai trò đối tác kinh doanh. Điều đầu tiên chính là không đủ khả năng để đáp ứng công nghệ của phía đối tác.
Chiêu thức này đã từng được Unilever áp dụng khi liên doanh với công ty P/S. Unilever là một tập đoàn sản xuất hàng tiêu dùng của Anh và Hà Lan. Khi Unilever thâm nhập thị trường Việt Nam năm 1995, hãng đã xúc tiến đàm phán để được chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu kem đánh răng P/S.
Thương hiệu P/S nay đã là của Unilever.
Với chiêu thức liên doanh cùng hợp tác khai thác nhãn hiệu P/S, Unilever đã từ từ mang công nghệ của mình vào hoạt động sản xuất của P/S. Thời điểm đó, nhìn vào sự hợp tác “đôi bên cùng có lợi” này, giới kinh doanh đều cho rằng P/S sẽ có lợi lớn vì vừa có được nguồn thu từ việc bán nhãn hiệu để xúc tiến các mục tiêu đầu tư khác, vừa tiếp tục được chia lợi nhuận qua doanh nghiệp liên doanh.
Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn ván bài hợp tác đã hoàn toàn lộ rõ bản chất thực của mình. Công ty Hóa phẩm P/S ngày càng đuối sức trong cuộc chạy đua theo công nghệ sản xuất mới.
Lý do là do liên doanh thay đổi công nghệ để phát triển sản xuất. Nếu như trước đây, vỏ kem đánh răng của P/S là nguyên liệu nhôm thì lúc đó, nhựa đã được dùng để thay thế. Công ty Hóa phẩm P/S đã không đủ sức đầu tư dây chuyền sản xuất mới để tiếp tục gia công cho liên doanh nên số cổ phần còn lại của P/S đã rơi vào tay Unilever.
Chạy theo nguồn vốn
Trên thực tế, không chỉ các thương hiệu Việt có lịch sử tồn tại từ trước chiến tranh mà ngay cả những thương hiệu mạnh của chúng ta góp mặt từ những năm trở lại đây cũng bị các thương hiệu ngoại thâu tóm. Trong đó, không ít thương hiệu do bị đuối sức trong việc chạy theo nguồn vốn đã trở thành con mồi ngon cho các công ty, tập đoàn nước ngoài.
Câu chuyện này gắn liền với trường hợp của thương hiệu nước giải khát Tribeco. Năm 2005, Tribeco nhận ra rằng, nếu không hợp tác để đẩy mạnh sự phát triển thì sẽ bị các đối thủ nước ngoài triệt hạ. Vì vậy, Tribeco đã bắt tay hợp tác với cổ đông lớn là Công ty cổ phần Bánh kẹo Kinh Đô (KDC) thông qua việc bán lại 35% cổ phần cho KDC. Hai năm sau, Tribeco tiếp tục hợp tác với đối tác chiến lược Uni – Presiden.

Thương hiệu nước giải khát Tribeco nay thuộc về Uni – President.
Được hậu thuẫn bởi hai “ông lớn” giàu vốn, tuy nhiên, ngược lại với những dự tính ban đầu, kết thúc năm tài chính 2008 Tribeco gây ra cú “sốc” lớn với thị trường khi công bố lỗ 145 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 5,32 tỷ đồng dù 3 quý đầu năm báo lãi.
Sau cú “sốc” đó, Tribeco bắt đầu “mất lái”, liên tiếp 12/13 quý sau đó toàn thua lỗ. Quý duy nhất có lãi là từ thu nhập bất thường của hoạt động chuyển nhượng cổ phần. Tính đến cuối năm 2011, Tribeco lỗ lũy kế tới 300 tỷ đồng, âm vốn chủ sở hữu. Theo thông báo của Tribeco tại đại hội cổ đông (tháng 7/2012), công ty lỗ khoảng 100 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 126 tỷ đồng.
Trong tình thế lỗ, đi vay vốn để cầm cự, Tribeco còn phải gánh vác nợ và các khoản chi cho Tribeco Bình Dương và Tribeco miền Bắc. Không những thế, khi vẫn đang còng lưng trả lãi cho các khoản vốn vay đầu tư các nhà máy, Tribeco lại vung tay đầu tư mua cổ phiếu KDC, Kidos và Sabeco. Đầu tư tài chính, chi phí lãi vay khi đầu tư dự án, việc trích lập dự phòng nợ khó đòi kết hợp với chi phí lập kênh phân phối, chi phí khi tung sản phẩm mới ra thị trường… khiến công ty thua lỗ lớn.
Và khi Tribeco Bình Dương thua lỗ nặng vào cuối năm 2008, Tribeco Sài Gòn sau đó đã dần dần bán hết phần vốn còn lại trong Tribeco Bình Dương cho chính Uni – President Việt Nam. Năm 2010, Tribeco Sài Gòn bán hết cổ phần ở Tribeco miền Bắc.
Ngoài ra, sau khi Tribeco Bình Dương đi vào hoạt động, Tribeco Sài Gòn đã quyết định đóng cửa hai nhà máy cũ tại TP. HCM. Như vậy, với việc giảm tỉ lệ nắm giữ và sau đó là bán hết vốn trong Tribeco Bình Dương, Tribeco Sài Gòn chỉ giữ vai trò là nhà bán hàng, hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn hàng do Tribeco Bình Dương cung cấp, mà thực chất là của Uni – President Việt Nam.
Một công ty đang ăn nên làm ra như Tribeco lẽ ra khi kết hợp với 2 đối tác lớn thì phải mạnh lên, thế nhưng, thực tế lại thua lỗ liên tục và dẫn đến giải thể, những công ty liên kết dần thuộc về tập đoàn nước ngoài từng là đối tác của mình, đây là điều thật khó hiểu. Từ đó, dư luận trong giới đầu tư cho rằng Uni-President đã có chủ đích thâu tóm và phải chăng chính một số cổ đông lớn đã tiếp tay?
Trong đại hội cổ đông thường niên diễn ra cuối tháng 6/2012 của Tribeco, toàn bộ người của Kinh Đô đã đồng loạt từ nhiệm, nhường chỗ cho người của Uni-President. Thành viên HĐQT người Việt Nam sau đó cũng đã từ nhiệm. Kinh Đô thoái vốn hoàn toàn khỏi Tribeco.
Như vậy, Tập đoàn Đài Loan nay đang kiểm soát toàn bộ thương hiệu nước giải khát Việt Nam. Uni – President Việt Nam nắm quyền chi phối và sở hữu 100% Tribeco Bình Dương
Với việc đẩy Tribeco rơi vào cảnh buộc phải giải thể, nhà đầu tư nước ngoài này được độc chiếm thương hiệu Tribeco gắn với “đuôi” Bình Dương, chưa kể còn được hưởng một thị phần đáng kể của sản phẩm này mà không phải tốn một đồng để xây dựng thương hiệu.
Theo Petrotime
Share this:Click to share on Twitter (Opens in new window)Click to share on Facebook (Opens in new window)Click to share on Google+ (Opens in new window)Click to share on Pinterest (Opens in new window)Click to share on LinkedIn (Opens in new window)Click to share on Tumblr (Opens in new window)

Related

Prev Article Next Article

Brands Vietnam
Chiến lược “hai cánh tay” của Thiên Long

2 years ago

Facebook

Prev Article Next Article







Đánh giá bài viết



Khi Bến Nghé và Hồng Hà mải rong ruổi đa ngành với chăn nuôi, bất động sản, kinh doanh khách sạn…, Thiên Long đã đạt mức tăng trưởng kỷ lục trong vòng 10 năm trở lại đây, một phần nhờ một hệ thống công ty chuyên tập trung vào mảng B2B (Business to Business).
Thiên Long đã tiến hành phát triển các kênh bán hàng B2B và thương mại điện tử.
B2B của Thiên Long tỏa ra 2 phân khúc đối tượng: Nhà sách – siêu thị và Trường học – các doanh nghiệp. Đây cũng là nhân tố chính đẩy mạnh tăng trưởng kép của dòng sản phẩm Dụng cụ văn phòng – dòng sản phẩm dự kiến sẽ “vượt mặt” Bút viết.
Nếu nói B2B là chiến lược cánh tay phải của Thiên Long, thì gia tăng xuất khẩu có thể coi như chiến lược cánh tay trái của tập đoàn này, dự kiến sẽ tăng trưởng với CAGR 30% giai đoạn 2015-2019.
Theo dõi báo cáo tài chính của CTCP Tập đoàn Thiên Long dễ thấy công ty này đang mức tăng trưởng tốt nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Chủ tịch Thiên Long Cô Gia Thọ cho biết trong một bài báo mới đây của Forbes Việt Nam thì động lực phát triển của công ty nằm ở việc sử dụng nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài.
B2B – Cánh tay phải đắc lực của Thiên Long
Kể từ khi niêm yết trên sàn chứng khoán TPHCM, tập đoàn đã 3 lần tăng vốn điều lệ vào các năm 2010, 2012 và 2014, từ mức vốn điều lệ 120 tỷ đồng, tăng lên gần 268 tỷ đồng.
Nhờ vốn cổ đông, từ năm 2010, Thiên Long đã tiến hành phát triển các kênh bán hàng mới, trực tiếp, bao gồm mô hình doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và thương mại điện tử. Các nỗ lực này nằm trong chiến lược phát triển quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng, do hai công ty con Tân Lực phụ trách, gồm Tân Lực Miền Nam và Tân Lực Miền Bắc.
Chiến lược B2B của Thiên Long chia ra với 2 đối tượng: Nhà sách – siêu thị và Trường học – các doanh nghiệp.
Năm 2014, doanh thu thuần của hệ thống Tân Lực đạt 355 tỷ đồng, tăng 70% so với năm 2013, đóng góp 21% vào tổng doanh thu toàn tập đoàn.
Trong khi triển vọng tăng trưởng kênh thương mại điện tử của Thiên Long – Flexoffice là khá lớn và phù hợp với chiến lược đẩy mạnh mảng B2B của tập đoàn thời gian gần đây, B2B tiếp tục là chiến lược chủ chốt giúp tăng trưởng doanh thu trong thời gian tới.
Theo phân tích của CTCP Chứng khoán Bản Việt (VCSC), với dòng sản phẩm Dụng cụ văn phòng, B2B tiếp tục là chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng kép (CAGR) của dòng sản phẩm này giai đoạn 2015 – 2019 lên mức 23%, mức tăng trưởng cao nhất so với 3 dòng sản phẩm khác là Bút viết, Dụng cụ học sinh và Dụng cụ mỹ thuật.
Bên cạnh đó, dụng cụ học sinh và Dụng cụ mỹ thuật cũng sẽ tăng trưởng mạnh khi Thiên Long tận dụng tốt các mối quan hệ tốt với các tổ chức và trường học.
VCSC phân tích: Doanh thu của Thiên Long sẽ tăng trưởng 15% trong giai đoạn 2015-2019, trong đó, Dụng cụ văn phòng là yếu tố dẫn dắt tăng trưởng chính và sẽ thay thế phân khúc Bút viết để trở thành thành phần đóng góp doanh thu lớn nhất (30% trong năm 2019) trong 5 năm.
Với kênh phân phối truyền thống, Thiên Long đã cơ cấu lại mạng lưới phân phối bằng cách đánh giá lại từng nhà phân phối và chỉ giữ lại các nhà phân phối hiệu quả nhất. Kết quả của đợt sàng lọc là số nhà phân phối giảm từ 135 trong năm 2013 xuống 110 trong năm 2014 nhưng số điểm bán lẻ tăng mạnh thêm 7.000 điểm (từ 46.000 lên 53.000 điểm bán lẻ).
Mạng lưới phân phối cải thiện giúp Thiên Long mở rộng thị phần, nâng cao độ thâm nhập thị trường tại các tỉnh thành. Để dễ đánh giá tính hiệu quả của mạng lưới phân phối của Thiên Long, có thể nhìn sang đối thủ của Thiên Long – Công ty Văn phòng phẩm Hồng Hà. Hồng Hà có lượng nhà phân phối gần bằng Thiên Long với gần 100 nhà phân phối, nhưng số điểm bán lẻ chỉ bằng 1/5 của Thiên Long (hơn 10.000 điểm bán lẻ).
Xuất khẩu – Tay trái tiềm năng
Nếu nói B2B là chiến lược cánh tay phải của Thiên Long, thì gia tăng xuất khẩu có thể coi như chiến lược cánh tay trái của tập đoàn này, dự kiến sẽ tăng trưởng với CAGR 30% giai đoạn 2015-2019, nhờ vào việc mở rộng thành công sang các nước ASEAN và thâm nhập vào các thị trường khó tính như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU).
Trong những năm cuối thập kỷ 90s, bút bi Thiên Long từng đánh bật bút bi Trung Quốc trên thị trường Việt Nam.
Lịch sử này liệu có lặp lại trên “sân khách”?
“Ngày càng có nhiều lo ngại về độ an toàn của các sản phẩm Trung Quốc đối với trẻ em nên người tiêu dùng Việt Nam hiện nay sẵn sang mua các sản phẩm an toàn hơn với giá cao hơn. Một điều thú vị là tình hình tương tự cũng diễn ra tại Trung Quốc – một trong những thị trường xuất khẩu của Thiên Long. Người tiêu dùng Trung Quốc không tin tưởng các sản phẩm trong nước nữa và không phải ai cũng có đủ điều kiện để mua sản phẩm nhập khẩu từ Phương Tây, qua đó mở ra cơ hội cho Thiên Long”, VCSC nhận xét về lợi thế của Thiên Long trên thị trường Trung Hoa.
Doanh thu xuất khẩu của Thiên Long năm 2014 đạt 181 tỷ đồng, tăng 32,2% so với năm 2013. Lũy kế từ năm 2010 đến nay, doanh thu xuất khẩu của Thiên Long đã tăng 3,3 lần.
Theo Theo Trí Thức Trẻ
Share this:Click to share on Twitter (Opens in new window)Click to share on Facebook (Opens in new window)Click to share on Google+ (Opens in new window)Click to share on Pinterest (Opens in new window)Click to share on LinkedIn (Opens in new window)Click to share on Tumblr (Opens in new window)

Related

Prev Article Next Article